misha_chan
Vote: 3
1.Lịch sử Trái Đất
Lịch sử Trái Đất trải dài khoảng 4,55 tỷ năm, từ khi Trái Đất hình thành từ Tinh vân Mặt Trời cho tới hiện tại. Bài viết này đưa ra 1 khái quát chung, tóm tắt những lý thuyết khoa học được nhiều người công nhận hiện tại.
Trong bài này, để giúp độc giả dễ tưởng tượng, toàn bộ lịch sử Trái Đất được miêu tả trong 1 khoảng thời gian tượng trưng bằng 24 giờ. Thời điểm bắt đầu là 0 giờ, chính xác vào 4,55 tỷ năm trước, và kết thúc, 24 giờ, ở thời điểm hiện tại. Mỗi giây tượng trưng trong khoảng thời gian này tương đương với khoảng 53.000 năm.
Vụ nổ lớn và nguồn gốc của vũ trụ, được ước tính đã xảy ra khoảng 13,8 tỷ năm trước, tương đương với việc ta lấy mốc của nó là 3 ngày trước đây - 2 ngày trước khi chiếc đồng hồ của riêng chúng ta (hệ Mặt Trời) bắt đầu chuyển động.
"1.Earth History
Earth's history spans about 4.55 billion years, from the time the Earth formed from the Solar Nebula to the present. This article provides a general overview, summarizing the currently widely accepted scientific theories.
In this article, to make it easier for readers to imagine, the entire history of the Earth is described in a symbolic period of 24 hours. The time starts at 0 hours, exactly 4.55 billion years ago, and ends, 24 hours, at the present time. Each symbolic second in this period equates to approximately 53,000 years.
The big bang and the origin of the universe, which is estimated to have happened about 13.8 billion years ago, is equivalent to taking it 3 days ago - 2 days before our own clock (solar system) begins to move."
2.nguồn gốc
Trái đất được hình thành cùng với Hệ Mặt Trời từ khi Hệ Mặt Trời ban đầu tồn tại như 1 đám mây bụi và khí lớn, quay tròn, gọi là tinh vân Mặt Trời. Tinh vân này gồm hydro và heli được tạo ra từ Vụ Nổ Lớn, và những nguyên tố hóa học nặng hơn khác được tạo ra từ các ngôi sao đã chết. Sau đó, vào khoảng 4,6 tỷ năm trước (15 đến 30 phút trước khi chiếc đồng hồ tưởng tượng của chúng ta bắt đầu chạy), có thể 1 ngôi sao ở gần đó bắt đầu trở thành 1 siêu tân tinh. Vụ nổ gây sóng chấn động về hướng tinh vân Mặt Trời và làm nó bị nén vào. Vì đám mây tiếp tục quay, lực hấp dẫn và quán tính làm đám mây trở nên phẳng như hình dạng một cái đĩa, vuông góc so với trục quay của nó. Đa phần khối lượng tập trung ở giữa và bắt đầu nóng lên. Lúc ấy, khi trọng lực làm cho vật chất cô đặc lại xung quanh các hạt bụi vật chất, phần còn lại của đĩa bắt đầu tan rã thành những vành đai. Các mảnh nhỏ va chạm vào nhau và tạo thành những mảnh lớn hơn..[1] Những mảnh nằm trong tập hợp nằm cách trung tâm khoảng 150 triệu kilômét tạo thành Trái Đất. Khi Mặt Trời ngày càng đặc lại, nó nóng lên, phản ứng hạt nhân bùng nổ và tạo nên gió Mặt Trời thổi bay đa phần những vật chất ở trong đĩa vẫn còn chưa bị cô đặc vào những tập hợp vật chất lớn hơn.
"2.origin
The Earth formed with the Solar System since the early Solar System existed as a large, rotating cloud of dust and gas, called a solar nebula. This nebula consists of hydrogen and helium created in the Big Bang, and other heavier chemical elements created from dead stars. Then, around 4.6 billion years ago (15 to 30 minutes before our imaginary clock starts running), it's possible that a nearby star started to become a supernova. The explosion sent shock waves toward the solar nebula and compressed it. As the cloud continues to rotate, gravity and inertia cause the cloud to flatten out like a disk, perpendicular to its axis of rotation. Most of the mass is concentrated in the middle and begins to heat up. Then, as gravity causes matter to condense around dust particles, the rest of the disk begins to disintegrate into rings. Small pieces collide and form larger pieces..[1] Pieces in the assemblage located about 150 million kilometers from the center make up the Earth. As the Sun became more and more compact, it heated up, nuclear reactions exploded and created the solar wind, which blew most of the material in the disk that had not yet been condensed into larger aggregates."
3.Liên đại Hỏa Thành (Thái Viễn Cổ)
Trái Đất buổi ban đầu, ở thời gian Liên đại Hỏa Thành hay Thái Viễn Cổ, rất khác biệt so với Trái Đất của chúng ta ngày nay. Trái Đất không có các đại dương và cũng không có oxy trên khí quyển. Hành tinh luôn bị bắn phá bởi các tiểu hành tinh và các vật chất khác còn sót lại sau khi hình thành nên Hệ Mặt Trời. Cuộc bắn phá dữ dội này, cộng với sức nóng từ sự phân chia kích hoạt phóng xạ, sức nóng còn sót lại, sức nóng từ áp lực co ngót, làm cho hành tinh ở giai đoạn này hầu như bị nấu chảy ra. Những vật chất nặng chìm vào tâm trong khi những vật chất nhẹ hơn nổi lên bề mặt, tạo ra nhiều lớp của Trái Đất (xem "Cấu trúc Trái Đất"). Khí quyển ban đầu của Trái Đất có thể gồm những vật liệu bao quanh bên ngoài từ tinh vân mặt trời, đặc biệt là các khí nhẹ như hydro và heli, nhưng gió mặt trời và chính nhiệt lượng của Trái Đất có thể đã thổi bay khí quyển đó. Bề mặt dần lạnh đi, tạo nên vỏ cứng trong vòng 150 triệu năm (khoảng 4,4 tỷ năm trước)[4]. Hơi nước thoát ra từ lớp vỏ khi các khí gas bị núi lửa phun lên, tạo cho Trái Đất một khí quyển thứ hai. Nước được cung cấp thêm từ những cuộc va chạm của sao băng. Hành tinh lạnh đi. Các đám mây được tạo thành. Mưa tạo nên các biển trong vòng 750 triệu năm (3,8 tỷ năm trước, khoảng 4:00 giờ sáng theo đồng hồ của chúng ta), nhưng cũng có thể sớm hơn. (Những bằng chứng gần đây cho thấy các đại dương có thể đã bắt đầu được tạo nên từ 4,2 tỷ năm trước — 1:50 sáng theo đồng hồ của chúng ta.)[5] Khí quyển mới có lẽ có chứa amonia, mêtan, hơi nước, cacbon dioxide, và nitơ, cũng như một lượng nhỏ các chất khí. Hoạt động núi lửa tăng lên, và vì không có một lớp ozone để ngăn cản, bức xạ tia cực tím thâm nhập khắp bề mặt Trái Đất.
"3. Lien Dai Hoa Thanh (Thai Vien Ancient)
The early Earth, at the time of the Great Fire City or the Paleozoic, was very different from our Earth today. Earth has no oceans and no oxygen in the atmosphere. The planet has always been bombarded by asteroids and other matter left over from the formation of the Solar System. This intense bombardment, plus the heat from radioactively activated cleavage, the residual heat, the heat from the shrinkage, causes the planet at this stage to be mostly molten. Heavy matter sinks to the center while lighter matter rises to the surface, creating many layers of the Earth (see "Earth Structure"). Earth's early atmosphere may have consisted of surrounding material from the solar nebula, especially light gases such as hydrogen and helium, but the solar wind and the Earth's own heat may have blown it away. that atmosphere. The surface gradually cooled, forming a hard shell over 150 million years (about 4.4 billion years ago)[4]. Water vapor escapes from the crust as volcanic gases erupt, giving Earth a second atmosphere. Water is supplied by meteor impacts. The planet is cold. Clouds are created. Rain made the seas within 750 million years (3.8 billion years ago, around 4:00 a.m. on our clock), but possibly earlier as well. (Recent evidence suggests that the oceans may have started forming 4.2 billion years ago — 1:50 a.m. according to our clock.)[5] The new atmosphere probably contains ammonia. , methane, water vapour, carbon dioxide, and nitrogen, as well as trace amounts of gases. Volcanic activity increased, and because there was no ozone layer to block it, ultraviolet radiation penetrated the Earth's surface."
4.Khởi nguồn sự sống
Các chi tiết về nguồn gốc sự sống vẫn còn chưa được khám phá, mặc dù các nguyên lý rộng đã được lập nên. Một thiểu số các nhà khoa học tin rằng cuộc sống, hay ít nhất là các thành phần hữu cơ, có thể đã tới Trái Đất từ vũ trụ (xem "Thuyết tha sinh"); tuy vậy, những cơ cấu theo đó sự sống có thể được phát sinh được tin là tương tự với những sự sống có nguồn gốc trên Trái Đất.[6] Đa số các nhà khoa học tin rằng sự sống có nguồn gốc Trái Đất, nhưng thời gian của sự kiện này rất khác biệt - có lẽ là vào khoảng 4 tỷ năm trước (khoảng 3:00 giờ sáng theo đồng hồ của chúng ta).[7] Vì một lý do chưa xác định, trong sự hoạt động hóa học mạnh mẽ thời kỳ đầu của Trái Đất, một phân tử (hay thậm chí là một thứ gì khác) đã có khả năng tự phân chia thành các bản sao của chính nó. Bản chất của phân tử này vẫn còn chưa được biết tới, từ đó các chức năng của nó được truyền lại cho các thế hệ bản sao về sau này, DNA. Khi tự mô phỏng, bản sao không phải bao giờ cũng thể hiện chính xác tương tự như thế hệ trước: một số bản sao có chứa "lỗi". Nếu sự thay đổi tiêu diệt khả năng tự mô phỏng của phân tử, thì nó sẽ mất đi, và con đường phát triển bị "tắt ngấm". Nếu không, một số thay đổi hiếm hoi sẽ làm cho phân tử được mô phỏng và được tái tạo một cách nhanh chóng hơn và với khả năng tốt hơn: những "dòng dõi" đó sẽ trở nên đông đảo và "thành công" hơn. Khi sự lựa chọn các vật liệu thô (thức ăn) trở nên thiếu thốn, các dòng dõi sau đó có thể khai thác các nguyên liệu khác, hay có lẽ là học cách tiến triển của các kiểu dòng dõi khác, và trở nên đông đảo hơn.[8]
Nhiều kiểu phát triển khác nhau đã được đưa ra nhằm giải thích tại sao một bản sao lại có thể phát triển hơn. Nhiều bản sao đã được thử nghiệm, gồm cả các hóa chất hữu cơ như các protein hiện đại của các acid nucleic, phospholipid, tinh thể,[9] hay thậm chí các hệ lượng tử.[10] Hiện nay không có phương pháp nào có thể xác định kiểu nào trong số các kiểu trên, nếu có, là tương thích nhất với nguồn gốc sự sống trên Trái Đất. Một trong những lý thuyết trước kia, và là một lý thuyết đã chứng minh là đúng đắn về một số mặt, sẽ được đem ra làm ví dụ về việc tại sao quá trình này có thể xảy ra. Năng lượng cao từ các núi lửa, sét, và bức xạ tia cực tím có thể làm cho các phản ứng hóa học tạo ra nhiều phân tử phức tạp hơn từ các hợp chất đơn giản như mêtan và amoniắc.[11] Trong số chúng có nhiều hợp chất hữu cơ đơn giản là những nguyên tố căn bản của sự sống. Khi số lượng của những "hợp chất hữu cơ" đó tăng lên, các phân tử khác nhau phản ứng lẫn nhau. Thỉnh thoảng các phân tử phức tạp hơn có thể tạo thành các cơ thể sống, tạo ra một tổ chức để tập hợp và tập trung các vật chất hữu cơ.[12] Sự hiện diện của một số phân tử có thể làm tăng tốc một phản ứng hóa học. Tất cả chúng tiếp diễn trong một thời gian dài, với các phản ứng thường hay ít xảy ra ngẫu nhiên, tới khi nó may mắn tạo nên một phân tử mới: phân tử tái tạo. Nó có tính chất kỳ dị thúc đẩy các phản ứng hóa học tạo thành bản sao của chính nó, và tiến trình phát triển thực sự bắt đầu. Các lý thuyết khác đưa ra các kiểu tái tạo khác. Trong bất kỳ trường hợp nào, DNA chiếm vai trò chức năng của các phần tử tái tạo; tất cả các hình thức sự sống từng được biết (ngoại trừ một số loại virus) sử dụng DNA làm hình thức tái tạo của chúng trong hầu hết phương pháp tái tạo.
"4. Origin of life
The details of the origin of life remain unexplored, although broad principles have been established. A minority of scientists believe that life, or at least organic components, may have come to Earth from space (see "Alternative Theory"); however, the mechanisms by which life may have arisen are believed to be similar to those that originated on Earth.[6] Most scientists believe that life originated on Earth, but the timing of this event was very different - probably around 4 billion years ago (around 3:00 a.m. according to our clocks). .[7] For some unknown reason, during the intense chemical activity of the early Earth, a molecule (or even something else) was able to divide into copies of itself. . The nature of this molecule is still unknown, since its functions are passed on to later generations of copies, DNA. When self-simulating, the clone does not always behave exactly the same as the previous generation: some copies contain "errors". If the change destroys the molecule's ability to self-replicate, it is lost, and the growth pathway is "shut down". Otherwise, some rare change will cause the molecule to be simulated and reproduced more quickly and with greater likelihood: those "lineages" will become more numerous and "successful". . When the choice of raw materials (food) became scarce, the lineages could then exploit other materials, or perhaps learn the evolution of other lineages, and become more numerous. more island.[8]
Various patterns of development have been proposed to explain why a clone might be more evolved. Many clones have been tested, including organic chemicals such as modern proteins of nucleic acids, phospholipids, crystals,[9] or even quantum systems.[10] There is currently no method that can determine which of these types, if any, is most compatible with the origin of life on Earth. One of the earlier theories, and one that has proven to be correct in some respects, will be given as an example of why this process can happen. The high energy from volcanoes, lightning, and ultraviolet radiation can cause chemical reactions to generate more complex molecules from simple compounds such as methane and ammonia.[11] Among them are many simple organic compounds that are the basic elements of life. As the number of those "organic compounds" increases, the different molecules react with each other. Occasionally more complex molecules can form living organisms, providing an organization for the collection and concentration of organic matter.[12] The presence of certain molecules can speed up a chemical reaction. All of this goes on for a long time, with reactions that are more or less random, until it luckily creates a new molecule: the replicating molecule. It has the singularity of spurring chemical reactions to duplicate itself, and real development begins. Other theories suggest other types of reproduction. In any case, DNA takes on the functional role of replicating elements; All known forms of life (with the exception of some viruses) use DNA as their replicative form in most reproduction methods."
5.Tế bào đầu tiên
Sự sống hiện đại có nguyên liệu tái tạo được đóng gói gọn bên trong một màng tế bào. Tìm hiểu nguồn gốc màng tế bào dễ dàng hơn so với việc tìm hiểu nguồn gốc chất tái tạo, bởi vì các phân tử phospholipid tạo thành màng tế bào thường ở dạng hai lớp (bilayer) tự sinh khi được đặt trong nước. Dưới một số điều kiện, nhiều quả cầu như vậy có thể được hình thành (xem "Lý thuyết bong bóng").[13] Vẫn chưa biết được liệu quá trình này diễn ra trước hay sau khởi nguồn của chất tái tạo (hay có lẽ nó từng là chất tái tạo). Thuyết phổ biến nhất cho rằng chất tái tạo, có lẽ RNA tới lúc ấy (lý thuyết thế giới RNA), cùng bộ máy tái tạo của nó và có lẽ cả các biomolecules khác đã có tham gia vào quá trình. Các tiền tế bào ban đầu có lẽ đã đơn giản vỡ ra khi chúng phát triển quá lớn; những thứ bên trong có lẽ đã xâm lấn sang các "bong bóng" khác. Các protein làm ổn định màng, hay sau này giúp vào quá trình phân chia có trật tự, đã thúc đẩy quá trình tăng trưởng của các tế bào đó. RNA cũng có thể là một ứng cử viên của một chất tái tạo ban đầu bởi vì nó vừa có thể lưu giữ thông tin di truyền vừa làm xúc tác cho các phản ứng. Ở một số mặt, DNA đã chiếm giữ vai trò lưu giữ di truyền của RNA, và các protein được gọi là enzym chiếm vai trò xúc tác, để RNA chuyển thông tin và điều chỉnh quá trình này. Ngày càng có nhiều người tin rằng những tế bào ban đầu đó có thể đã tham gia cùng với các chất thoát từ miệng núi lửa dưới đáy biển được gọi là "khói đen"[14], hoặc thậm chí với đất đá nóng và sâu.[15] Tuy nhiên, mọi người tin rằng trong vô số những tế bào hay những tiền tế bào này chỉ có một còn sống sót. Những bằng chứng hiện nay cho thấy vị tổ tiên của thế giới đã sống trong buổi đầu thời kỳ Archean, có lẽ khoảng 3,5 tỷ năm trước (5:30 sáng theo chiếc đồng hồ tưởng tượng của chúng ta) hay sớm hơn.[16][17] Tế bào này là tổ tiên của mọi tế bào và vì thế là tổ tiên của mọi sự sống trên Trái Đất. Có lẽ nó là một sinh vật nhân sơ, có một màng tế bào và có lẽ cả ribosome, nhưng không có nhân hay các cơ quan tế bào ngoài màng như ty thể hay lục lạp. Giống như mọi tế bào hiện đại, nó sử dụng DNA làm mã di truyền, RNA để trao đổi thông tin và tổng hợp protein, và các enzyme làm xúc tác cho phản ứng. Một số nhà khoa học tin rằng tế bào này không chỉ là một cá thể duy nhất mà là một số lượng các sinh vật trao đổi gen trong trao đổi gen bên.
"5.First cell
Modern life has renewable materials encapsulated within a cell membrane. It is easier to understand the origin of the cell membrane than the source of the regenerator, because the phospholipid molecules that make up the cell membrane are often spontaneously bilayer when placed in water. Under certain conditions, many such spheres can be formed (see "Bubble Theory").[13] It is not known whether this process occurs before or after the origin of the regenerator (or perhaps it used to be the regenerator). The most popular theory is that the regenerator, perhaps RNA by then (RNA world theory), with its replication machinery and perhaps other biomolecules were involved in the process. The early protocells may have simply broken apart when they grew too large; what's inside has probably invaded other "bubbles". Proteins that stabilize the membrane, or later help with orderly division, promote the growth of those cells. RNA may also be a candidate for a primary regenerative agent because it can both store genetic information and catalyze reactions. In some ways, DNA has taken over the role of RNA's genetic storage, and proteins called enzymes act as catalysts, for RNA to transmit information and regulate the process. It is increasingly being believed that these early cells may have been associated with volcanic vents on the seafloor known as "black smoke"[14], or even with hot, deep rock. .[15] However, it is believed that out of this multitude of cells or protocells only one survives. Current evidence suggests that the world's ancestor lived during the early Archean period, perhaps 3.5 billion years ago (5:30 a.m. according to our imaginary clock) or earlier. [16][17] This cell is the ancestor of all cells and therefore the ancestor of all life on Earth. It is probably a prokaryotic organism, with a cell membrane and perhaps ribosomes, but no nucleus or extramembrane organelles such as mitochondria or chloroplasts. Like all modern cells, it uses DNA as its genetic code, RNA for information exchange and protein synthesis, and enzymes to catalyze reactions. Some scientists believe that this cell is not a single individual but a number of organisms that exchange genes in lateral gene exchange."
6.Quang hợp và oxy
Có lẽ tất cả các tế bào ban đầu đều là tế bào dị dưỡng, sử dụng những phân tử hữu cơ (kể cả từ những tế bào khác) như nguyên liệu sống và một nguồn năng lượng.[18] Vì nguồn cung cấp dinh dưỡng hạn chế, một số tế bào đã phát triển cách thức hấp thụ dinh dưỡng mới. Thay vì dựa vào số lượng các phân tử hữu cơ tồn tại tự do đang ngày càng giảm sút, những tế bào này hấp thụ ánh sáng mặt trời như một nguồn năng lượng. Các con số ước lượng được đưa ra không đồng nhất, nhưng vào khoảng 3 tỷ năm trước[19] (khoảng 8:00 giờ sáng trên chiếc đồng hồ của chúng ta), một thứ tương tự như sự quang hợp hiện đại ngày nay có lẽ đã bắt đầu phát triển. Việc này khiến không chỉ sinh vật tự dưỡng mà cả sinh vật dị dưỡng lợi dụng được năng lượng mặt trời. Quang hợp sử dụng dioxide cacbon và nước vốn rất phong phú cùng với năng lượng từ ánh sáng mặt trời để sản xuất những phân tử hữu cơ giàu năng lượng (hydrat carbon). Ngoài ra, khí oxy được sản xuất như một phế phẩm của quá trình quang hợp. Đầu tiên nó liên kết với đá vôi, sắt, và những chất khoáng khác; nhưng khi các khoáng chất đã được sử dụng hết, oxy bắt đầu tích tụ trong khí quyển. Dù mỗi tế bào chỉ sản xuất ra một lượng oxy nhỏ, tổng các quá trình trao đổi chất của nhiều tế bào sau những khoảng thời gian dài dằng dặc đã biến khí quyển Trái Đất trở thành tình trạng như hiện nay.[20] Và đây là thời kỳ khí quyển thứ ba của Trái Đất. Một số oxy phản ứng để hình thành nên ôzôn, tạo thành một lớp nằm ở phần trên cùng của khí quyển. Tầng ozon đã hấp thụ, và vẫn đang hấp thụ, một lượng lớn bức xạ cực tím mà trước kia có thể xuyên qua khí quyển. Điều này cho phép các tế bào di chuyển lên bề mặt đại dương và cuối cùng là đất liền:[21] Nếu không có tầng ôzôn, bức xạ cực tím sẽ đi tới bề mặt Trái Đất và gây ra tình trạng biến đổi lớn cho các tế bào. Bên cạnh việc tạo ra phần lớn lượng năng lượng cần thiết cho các hình thức sự sống và ngăn cản bức xạ tia cực tím, các tác động của quang hợp còn có một tác dụng thứ ba khác đưa tới sự thay đổi mang tầm quan trọng lớn trên thế giới. Oxy là chất độc đối với nhiều dạng sống vào thời kỳ này; có lẽ đa phần sự sống trên Trái Đất đã biến mất khi lượng oxy tăng lên (Thảm họa oxy).[21] Sau thảm họa oxy, các hình thái sự sống mới thích nghi được với bầu khí quyển oxy đã tồn tại và phát triển, và một số đã phát triển khả năng sử dụng oxy để tăng cường sự trao đổi chất và hấp thu được nhiều năng lượng hơn từ cùng loại thực phẩm.
"6.Photosynthesis and oxygen
Presumably all cells were originally heterotrophic cells, using organic molecules (including from other cells) as living material and a source of energy.[18] Because of a limited nutrient supply, some cells have developed new ways of absorbing nutrients. Instead of relying on a decreasing number of free-living organic molecules, these cells absorb sunlight as a source of energy. Estimates are not uniform, but about 3 billion years ago[19] (about 8:00 a.m. on our clock), something similar to modern photosynthesis today may have already begun to grow. This allows not only autotrophs but also heterotrophs to take advantage of solar energy. Photosynthesis uses abundant carbon dioxide and water along with energy from sunlight to produce energy-rich organic molecules (carbohydrates). In addition, oxygen is produced as a byproduct of photosynthesis. It first binds limestone, iron, and other minerals; but when the minerals were used up, oxygen started to accumulate in the atmosphere. Although each cell produces only a small amount of oxygen, the combined metabolic processes of many cells over long periods of time have transformed the Earth's atmosphere into its present state.[20] And this is the third atmospheric period of the Earth. Some of the oxygen reacts to form ozone, which forms a layer located at the top of the atmosphere. The ozone layer has absorbed, and is still absorbing, large amounts of ultraviolet radiation that could previously penetrate the atmosphere. This allows cells to move to the surface of the oceans and eventually land:[21] Without the ozone layer, ultraviolet radiation would reach the Earth's surface and cause great changes in the environment. cells. In addition to generating most of the energy needed for life forms and blocking ultraviolet radiation, the effects of photosynthesis have a third effect leading to an important change. big in the world. Oxygen was toxic to many life forms of this period; probably most of life on Earth disappeared as oxygen levels increased (oxygen catastrophe).[21] After the oxygen catastrophe, new life forms adapted to an oxygen atmosphere existed and evolved, and some developed the ability to use oxygen to enhance metabolism and absorb more energy. more quantity from the same food."
được lấy từ: https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch_s%E1%BB%AD_Tr%C3%A1i_%C4%90%E1%BA%A5t
taken from: https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch_s%E1%BB%AD_Tr%C3%A1i_%C4%90%E1%BA%A5t
lưu ý: bài viết này đã được mình chọn lọc và bỏ đi 1 số phần ,nếu các bạn muốn tìm hiểu thêm thì vào nguồn ở trên nhé ^^
"Note: this article has been selected by me and removed some parts, if you want to learn more, please go to the source above ^^"
2021-11-27T04:23:54Z
giftofdeath | Vote: 2vote nha nhưng bài hơi nhiều chữ, nên cho thêm hình ảnh vào thì sẽ hay hơn
2021-11-27T08:58:08Z
HongKhangT11 | Vote: 11 vote
2021-11-27T04:39:26Z
Ban_Mai_2k1 | Vote: 11 vote nhé!
2021-11-27T04:53:14Z
..Chi_Dai-2k3.. | Vote: 11 vote nh
2021-11-27T05:13:39Z
.hecker. | Vote: 11 vote
2021-11-27T05:57:36Z
Suri90997-1 | Vote: 11 vote bạn thêm hình ảnh vào cho đẹp
2021-11-27T11:09:24Z
spacel_u | Vote: 11 vote nhen
2021-11-30T00:40:14Z